Chào mừng đến với Huế - Việt Nam
[i]Một cảm nhận “hway” rất rõ ràng, Huế là kinh đô cũ của triều đại nhà Nguyễn, tạo ra biết bao tiếng vang với những vinh quang của các Hoàng đế Việt Nam, mặc dù cho đến nay nhiều toà nhà đã bị phá huỷ sau chiến tranh chống Mỹ
Kể cả vào những ngày thời tiết không ủng hộ, thì Huế vẫn cứ mang một vẻ đẹp quyến rũ bên cạnh dòng sông Hương như trong tranh vẽ. Ngày nay, nhiều toà nhà, khách sạn đẹp đẽ mọc lên, pha trộn nét hiện đại với nét cổ kính uy nghiêm của những toà tháp cũ, những bức tường thành cổ đã trải qua bao thế kỷ thăng trầm.
Cho đến tận bây giờ, mặc dù có thêm một vài quán bar mở muộn hay những gánh hàng rong chào hàng trên phố thì Huế vẫn cứ là một thành phố yên tĩnh và mộng mơ
[/i]
Chùa Thiên Mụ
Được xây dựng trên một ngọn đồi nhìn ra sông Hương, nằm ở khoảng km số 4 về phía tây nam của Đại Nội, ngôi chùa này là một biểu tượng của Việt Nam giống như Đại Nội là biểu tượng của Huế vậy. Tháp Phước Duyên, một toà tháp hình bát giác cao 21m được xây dựng phía trước chùa dưới triều đại vua Thiệu Trị năm 1844. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật manushi-buddha (một vị Phật xuất hiện trong hình dạng con người). Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân (bánh xe Phật pháp, biểu tượng Phật giáo.Pháp luân đặt trên đình Hương Nguyện quay khi gió thổi). Nên ghé thăm nơi này vào sáng sớm trước khi khách du lịch đến tham quan.
[center] [/center]
Chùa Thiên Mụ ban đầu được thành lập vào năm 1601 bởi Nguyễn Hoàng, thống đốc của tỉnh Thuận Hóa. Qua nhiều thế kỷ những tòa nhà đã bị phá hủy và xây dựng lại nhiều lần. Kể từ những năm 1960 nó đã trở thành một điểm nóng của các cuộc biểu tình chính trị
Ở bên phải của tháp là một gian có bia đá từ năm 1715. Nó được đặt trên lưng một con rùa bằng đá cẩm thạch khổng lồ, là biểu tượng của sự trường thọ. Ở phía bên trái của tháp là một gian sáu mặt, chứa một chiếc chuông khổng lồ (1710), có trọng lượng 2052kg và âm thanh vang xa đến 10km.
Ngôi đền nằm khiêm tốn bên trong sân. Trong khu bảo tồn chính đằng sau sự đồng Phật cười là ba pho tượng: A Di Đà, Đức Phật của quá khứ; Thích Ca, Đức Phật lịch sử (Thích Ca Mâu Ni); và Phật Di Lạc, Đức Phật của tương lai.
Bạn có thể đến đây bằng xe đạp hoặc ngồi thuyền
Thế Tổ Miếu (Hoàng thành Huế)
Thế Tổ Miếu thường gọi là Thế Miếu tọa lạc ở góc tây nam bên trong Hoàng thành Huế, là nơi thờ các vị vua triều Nguyễn. Khuôn viên của Thế Tổ Miếu có hình chữ nhật, diện tích khoảng trên 2ha, chiếm đến 1/18 diện tích toàn bộ các khu vực bên trong Hoàng thành và Tử Cấm thành. Tòa Thế Tổ Miếu là một công trình kiến trúc gỗ rất lớn được xây theo lối trùng thiềm điệp ốc đặt trên nền cao gần 1 m. Bình diện mặt nền hình chữ nhật (54,60 m × 27,70 m), diện tích 1500 m². Nhà chính có 9 gian và 2 chái kép, nhà trước có 11 gian và 2 chái đơn, nối liền nhau bằng vì vỏ cua chạm trổ rất tinh tế. Mái được lợp ngói hoàng lưu ly với đỉnh nóc gắn liền thái cực bằng pháp lam rực rỡ. Bên trong khuôn viên ngoài tòa Thế Tổ Miếu là công trình chính còn có thêm các công trình khác như Thổ Công Từ, Cửu Đỉnh, Hiển Lâm Các, Canh Y điện, Tả Vu, Hữu Vu.
[center][/center]
Bên ngoài Thế Tổ Miếu, trước mặt là một chiếc sân rộng lát gạch Bát Tràng. Trên sân đặt 1 hàng 14 chiếc đôn đá, bên trên đặt các chậu sứ trồng hoa. Hai bên sân lại có một đôi kỳ lân bằng đồng đứng trong thiết đình. Cuối sân là chín chiếc đỉnh đồng to lớn (Cửu Đỉnh) đặt thẳng hàng với 9 gian thờ trong miếu. Tiếp theo là gác Hiển Lâm, 3 tầng cao vút, hai bên có lầu chuông, lầu trống nối liền với gác bằng một bờ tường gạch. Bên dưới lầu chuông, lầu trống trổ 2 cửa, Tuấn Liệt (bên trái) và Sùng Công(bên phải). Bên ngoài bờ tường này có 2 miếu nhỏ cũng được gọi là Tả Vu và Hữu Vu thờ các công thần, thân huân thời Nguyễn.
Thổ Công Từ và Canh Y điện đều là những tòa nhà hình vuông nằm đối xứng với nhau theo chiều đông-tây của Thế Tổ Miếu (điện Canh Y nằm ở phía đông đã bị hủy hoại từ lâu), ở sát thần phía tây của miếu còn có một cây thông cổ thụ, có hình dáng uốn lượn rất đẹp, tường truyền được trồng từ khi dựng Thế Tổ Miếu.
Hoàng thành Huế
Hoàng thành Huế là một thành-trong-thành, là nơi ở của hoàng đế, thờ cúng tổ tiên nhà Nguyễn, tường thành dài 2.5km và cao 6m. Sau thiệt hại nặng nề của bom đạn trong chiến tranh chống Pháp và Mỹ, chỉ có 20 trong số 148 tòa nhà trong thành còn sót lại. Việc khôi phục và cải tạo nơi này vẫn đang được tiến hành
[center] [/center]
Sẽ gặp rất nhiều nền vỡ, gạch vụn, miếng ốp lát bị nứt và cỏ dại khi bạn đi xung quanh đây. Tuy nhiên sẽ rất thú vị để đi dạo. Có một vài quán cà phê nhỏ và quầy hàng lưu niệm ở đây
Nên tham quan bắt đầu từ Ngọ Môn và di chuyển ngược chiều kim đồng hồ cho đến khi đi hết thành
Lăng Tự Đức
Ngôi mộ này được xây dựng giữa năm 1864 và 1867, là ngôi mộ ấn tượng trong những lăng mộ hoàng gia. Vua Tự Đức đã thiết kế nó trước khi ông chết. Nhưng việc mất mất một khoản chi phí khổng lồ và tình trạng cưỡng bức lao động trong quá trình xây dựng đã sinh ra một âm mưu đảo chính nhưng đã được phát hiện và đàn áp. Lăng Tự Đức cách kinh thành Huế 5km về phía Nam. trên đồi Văn Niên ở làng Dương Xuân Thượng.
[center] [/center]
Từ cổng vào, có một con đường dẫn đến hồ Lưu Khiêm. Giữa hồ có đảo Tịnh Khiêm, là nơi mà Tự Đức sử dụng để vui chơi. Trên khắp các nước bên trái là Xung Khiêm Tạ, nơi ông sẽ ngồi với thê thiếp của ông, sáng tác hoặc đọc thơ. Chùa Hòa Khiêm là nơi Tự Đức và vợ của ông, Hoàng hậu Hoàng Lê Thiện Anh, được thờ cúng - ngày nay là nơi lưu trữ đồ tạo tác của hoàng gia. Ngai vàng lớn hơn là cho hoàng hậu; ngai vàng của Vua Tự Đức chỉ cao 153cm. Minh Khiêm Phòng, bên phải phía sau chùa Hoa Khiêm, để nhà vua xem hát, được coi là một trong những nhà hát cổ nhất của Việt Nam hiện còn. Phía sau chùa Hoa Khiêm là Lương Đền Khiêm, dành riêng cho mẹ Tự Đức, Từ Dũ. Bạn sẽ đi qua người trông giữ voi, ngựa và các quan lại nhỏ bé (thậm chí còn nhỏ hơn vua) trước khi đến bia thờ, là một viên đá 20 tấn. Tự Đức soạn thảo chữ khắc lên. Ông tự thừa nhận mình đã sai lầm và đặt tên ngôi mộ của ông là Khiêm ( khiêm tốn ). Các ngôi mộ, được bao bọc bởi một bức tường, nằm phía bên kia của một đầm nhỏ. Đó là một đài tưởng niệm buồn tẻ; nơi hài cốt của ông được chôn cất (cùng với kho báu vĩ đại) không được biết đến. Để giữ bí mật từ những kẻ cướp mộ, tất cả 200 người tham gia chôn cất vua đều bị chặt đầu. Tự Đức đã sống một cuộc sống hoàng gia sang trọng và vượt quá nhục dục (ông có 104 vợ và vô số thê thiếp), mặc dù không có con cái.
Lăng Minh Mạng
Lăng mộ này nổi tiếng với kiến trúc và thiết lập hùng vĩ. Ngôi mộ được lên kế hoạch xây dựng trong suốt triều đại Minh Mạng (1820-1840) nhưng lại được xây dựng bởi người kế nhiệm của ông, Thiệu Trị.
[center] [/center]
Lăng Minh Mạng nằm ở làng An Bằng, trên bờ phía tây của sông Hương, cách 12km từ Huế.
Đền thờ An Sung, được dành riêng cho Minh Mạng và hoàng hậu của mình. Ở phía bên kia của ngôi đền làba cây cầu đá trải Trung Minh Hồ. Các cầu trung tâm chỉ thuộc quyền sử dụng của hoàng đế. Minh Lâu đứng trên đỉnh của ba bậc thang chồng đại diện cho ba cường quốc : trời, đất và nước.
Một cái hồ hình trăng non tên là Tân Nguyệt ôm lấy Bửu Thành, từ đây có một cầu thang hoành tráng với lan can trạm rồng dẫn đến mộ vua Minh Mạng. Cổng vào lăng mộ chỉ được mở ra một năm một lần vào ngày giỗ của hoàng đế.
Lăng Khải Định
Lăng mộ này là một sự tổng hợp của các yếu tố Việt Nam và châu Âu. Hầu hết phía ngoài hoành tráng của ngôi mộ được bao phủ bởi bê tông đen, tạo ra một dạng kiến trúc kiểu Gothic, trong khi nội thất giống như một vụ nổ của màu sắc. Khải Định là hoàng đế áp chót của Việt Nam, 1916-1925, và bị nhiều người coi là bù nhìn của Pháp. Việc xây dựng ngôi mộ rực rỡ của ông mất 11 năm. Lăng mộ của vua Khải Định nằm ở làng Châu Chữ cách 10km từ Huế vào
[center] [/center]
Bên dưới bửu tán là pho tượng đồng của Khải Định được đúc tại Pháp năm 1920, do 2 người Pháp là P. Ducing và F. Barbedienne thực hiện theo yêu cầu của vua Khải Định. Thi hài nhà vua được đưa vào dưới pho tượng bằng một toại đạo dài gần 30 m, bắt đầu từ phía sau Bi Đình. Phía sau ngôi mộ, vầng mặt trời đang lặn như biểu thị cái chết của vua.
Người chịu trách nhiệm chính trong việc kiến tạo những tuyệt tác nghệ thuật trong lăng Khải Định là nghệ nhân Phan Văn Tánh, tác giả của 3 bức bích họa Cửu long ẩn vân lớn vào bậc nhất Việt Nam được trang trí trên trần của 3 gian nhà giữa trong cung Thiên Định.
Lăng Gia Long
Hoàng đế Gia Long thành lập triều đại nhà Nguyễn vào năm 1802 và cai trị cho đến năm 1819. Cả hai vị hoàng đế và hoàng hậu của mình đều được chôn cất ở đây. Ngôi mộ hiếm khi có người đến thăm và hiện nay đang trong tình trạng đổ nát, nhưng việc phục hồi đang được bắt đầu. Nằm cách khoảng 14km về phía nam của Huế và 3km từ bờ phía tây của sông Hương.
[center] [/center]
Hổ Quyền
Hoang dại, um tùm nhưng gợi cảm, Hồ Quyền được xây dựng vào năm 1830 cho các trò tiêu khiển hoàng gia như xem voi và hổ đối mặt trong chiến đấu. Những con hổ (và báo hoa mai) thường được giải phóng để chiến đấu với những con voi - một biểu tượng quyền lực của hoàng đế. Leo lên thành lũy cỏ và tưởng tượng cảnh chiến đấu tại đấu trường cũ - những cuộc chiến cuối cùng đã được tổ chức vào năm 1904.
[center] [/center]
Phần phía Nam đã được dành riêng cho các gia đình hoàng gia. Hổ Quyền nằm ở bên ngoài thôn Trường Đà cách Huế khoảng 3km.
Chùa Diệu Đế
Nhìn ra Đồng Kênh Bà, chùa này được xây dựng dưới sự cai trị của Vua Thiệu Trị (1841-1847) và nổi tiếng với bốn tháp thấp của nó, một trong hai bên cửa thành, và hai chầu thánh. Các gian hàng ở hai bên lối vào cung thánh chứa 18 La Hà, chức danh chỉ dưới Bồ Tát, và tám Kim Cang, bảo vệ của Đức Phật. Trong hàng trở lại của bục chính là Phật Thích Ca, hai bên là hai trợ lý.
[center] [/center]
Diệu Đế là một thành trì của Phật giáo và phe đối lập sinh viên với chính phủ Việt Nam trong cuộc chiến chống Mỹ, và nhiều vụ bắt giữ đã được thực hiện ở đây khi cảnh sát xông vào tòa nhà vào năm 1966.
Cổng Ngọ Môn
Ngọ Môn là cổng chính phía nam của Hoàng thành Huế. Ngọ Môn có hai phần chính là: đài - cổng và lầu Ngũ Phụng.
Phần đài - cổng Có bình diện hình chữ U vuông góc, đáy dài 57,77 m, cạnh bên dài 27,6 m. Đài được xây bằng gạch đá kết hợp với các thanh dầm chịu lực bằng đồng thau. Đài cao gần 5 m, diện tích chiếm đất hơn 1560 m² (kể cả phần trong lòng chữ U). Thân đài trổ 5 lối đi. Lối chính giữa là Ngọ Môn, chỉ dành cho vua đi. Hai lối bên là Tả Giáp Môn và Hữu Giáp Môn, dành cho quan văn, võ theo cùng trong đoàn Ngự đạo. Hai lối đi bên ngoài cùng nằm ở hai cánh chữ U là Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn, dành cho binh lính và voi ngựa theo hầu.
[center] [/center]
Lầu Ngũ phụng là phần lầu đặt ở phía trên đài - cổng. Ngoài phần thân đài, lầu còn được tôn cao bởi một hệ thống nền cao 1,15 m cũng chạy suốt thân đài hình chữ U. Lầu có hai tầng, kết cấu bộ khung hoàn toàn bằng gỗ lim với chẳn 100 cây cột. Mái tầng dưới nối liền nhau, chạy vòng quanh để che cho phần hồi lang. Mái tầng trên chia thành 9 bộ, với rất nhiều hình chim phụng trang trí ở phần bờ nóc, bờ quyết, khiến tòa lầu trông rất nhẹ nhàng, thanh thoát. Bộ mái chính giữa của lầu Ngũ Phụng lợp ngói lưu ly màu vàng, tám bộ còn lại lợp ngói lưu ly màu xanh
[center] [/center]
Ngọ Môn cũng là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Nơi đây ngày xưa vẫn thường diễn ra các lễ lạc quan trọng nhất của triều Nguyễn như lễ Ban sóc (ban lịch mới), Truyền Lô (tuyên đọc tên tiến sĩ tân khoa)... Ngày 25 tháng 8 năm 1945, tại cửa Ngọ Môn, vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của Việt Nam, đã đọc Tuyên ngôn Thoái vị và trao chính quyền lại cho chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Câu ca dao sau đây xuất hiện khi có cửa Ngọ Môn:
Ngọ Môn 5 cửa 9 lầu
1 lầu vàng 8 lầu xanh
3 cửa thẳng 2 cửa quanh...
Chùa Từ Hiếu
Ẩn mình trong một rừng thông, ngôi chùa nổi tiếng này được xây dựng vào năm 1843
Từ Hiếu gắn liền với Thiền sư Thích Nhất Hạnh, người đã học tại tu viện trong những năm 1940, nhưng đã sống lưu vong hơn 40 năm, và chỉ được phép trở về Việt Nam vào năm 2005.
[center] [/center]
Đàn Nam Giao
Là nơi các vua nhà Nguyễn tổ chức lễ tế trời đất vào mùa xuân hàng năm, thuộc địa phận phường Trường An, thành phố Huế. Đây là đàn Nam Giao duy nhất còn hiện hữu (dù trong tình trạng không còn nguyên vẹn) ở Việt Nam, cũng là đàn tế duy nhất còn tồn tại trong số nhiều đàn tế cổ ở Huế.
[center] [/center]
Điện Thái Hoà
Cung điện này (1803) là một đại sảnh rộng rãi với một mái nhà gỗ trang trí công phu hỗ trợ bởi 80 cột chạm khắc và sơn mài. Được sử dụng để tiếp khách chính thức của hoàng đế và các nghi lễ quan trọng. Trong những dịp này nhà vua ngồi trên ngai cao của mình, đối diện với khách nhập cảnh qua Ngọ Môn.
[center] [/center]
Cửu Vị Thần Công
Nằm ngay bên trong Hoàng thành, trước cửa Ngọ Môn – kinh thành Huế (1804), là biểu tượng bảo vệ của cung điện và đất nước. Được ủy quyền làm bởi Hoàng đế Gia Long. Bốn khẩu pháo gần Ngân Cổng đại diện cho bốn mùa, trong khi năm khẩu pháo bên cạnh cửa Quảng Đức đại diện cho năm yếu tố: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
[center] [/center]
Mỗi pháo đồng dài 5m và nặng khoảng 10 tấn.
Kỳ Đài
Tại trung tâm của bức tường đối diện với sông, Kỳ Đài cao 37m là cột cờ cao nhất của Việt Nam. Được xây dựng từ năm 1809 và được mở rộng vào năm 1831, bị đánh xuống vào năm 1904 bởi một cơn bão tàn phá thành phố. Nó được xây dựng lại vào năm 1915 chỉ bị phá hủy một lần nữa vào năm 1947. Hai năm sau, nó được dựng lên một lần nữa, như hình ảnh hiện tại của nó.
[center] [/center]
Vĩ Thanh dịch và sưu tầm
[i]Copy - Paste vui lòng ghi rõ nguồn Ola88.com[/i]
Kể cả vào những ngày thời tiết không ủng hộ, thì Huế vẫn cứ mang một vẻ đẹp quyến rũ bên cạnh dòng sông Hương như trong tranh vẽ. Ngày nay, nhiều toà nhà, khách sạn đẹp đẽ mọc lên, pha trộn nét hiện đại với nét cổ kính uy nghiêm của những toà tháp cũ, những bức tường thành cổ đã trải qua bao thế kỷ thăng trầm.
Cho đến tận bây giờ, mặc dù có thêm một vài quán bar mở muộn hay những gánh hàng rong chào hàng trên phố thì Huế vẫn cứ là một thành phố yên tĩnh và mộng mơ
[/i]
Chùa Thiên Mụ
Được xây dựng trên một ngọn đồi nhìn ra sông Hương, nằm ở khoảng km số 4 về phía tây nam của Đại Nội, ngôi chùa này là một biểu tượng của Việt Nam giống như Đại Nội là biểu tượng của Huế vậy. Tháp Phước Duyên, một toà tháp hình bát giác cao 21m được xây dựng phía trước chùa dưới triều đại vua Thiệu Trị năm 1844. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật manushi-buddha (một vị Phật xuất hiện trong hình dạng con người). Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân (bánh xe Phật pháp, biểu tượng Phật giáo.Pháp luân đặt trên đình Hương Nguyện quay khi gió thổi). Nên ghé thăm nơi này vào sáng sớm trước khi khách du lịch đến tham quan.
[center] [/center]
Chùa Thiên Mụ ban đầu được thành lập vào năm 1601 bởi Nguyễn Hoàng, thống đốc của tỉnh Thuận Hóa. Qua nhiều thế kỷ những tòa nhà đã bị phá hủy và xây dựng lại nhiều lần. Kể từ những năm 1960 nó đã trở thành một điểm nóng của các cuộc biểu tình chính trị
Ở bên phải của tháp là một gian có bia đá từ năm 1715. Nó được đặt trên lưng một con rùa bằng đá cẩm thạch khổng lồ, là biểu tượng của sự trường thọ. Ở phía bên trái của tháp là một gian sáu mặt, chứa một chiếc chuông khổng lồ (1710), có trọng lượng 2052kg và âm thanh vang xa đến 10km.
Ngôi đền nằm khiêm tốn bên trong sân. Trong khu bảo tồn chính đằng sau sự đồng Phật cười là ba pho tượng: A Di Đà, Đức Phật của quá khứ; Thích Ca, Đức Phật lịch sử (Thích Ca Mâu Ni); và Phật Di Lạc, Đức Phật của tương lai.
Bạn có thể đến đây bằng xe đạp hoặc ngồi thuyền
Thế Tổ Miếu (Hoàng thành Huế)
Thế Tổ Miếu thường gọi là Thế Miếu tọa lạc ở góc tây nam bên trong Hoàng thành Huế, là nơi thờ các vị vua triều Nguyễn. Khuôn viên của Thế Tổ Miếu có hình chữ nhật, diện tích khoảng trên 2ha, chiếm đến 1/18 diện tích toàn bộ các khu vực bên trong Hoàng thành và Tử Cấm thành. Tòa Thế Tổ Miếu là một công trình kiến trúc gỗ rất lớn được xây theo lối trùng thiềm điệp ốc đặt trên nền cao gần 1 m. Bình diện mặt nền hình chữ nhật (54,60 m × 27,70 m), diện tích 1500 m². Nhà chính có 9 gian và 2 chái kép, nhà trước có 11 gian và 2 chái đơn, nối liền nhau bằng vì vỏ cua chạm trổ rất tinh tế. Mái được lợp ngói hoàng lưu ly với đỉnh nóc gắn liền thái cực bằng pháp lam rực rỡ. Bên trong khuôn viên ngoài tòa Thế Tổ Miếu là công trình chính còn có thêm các công trình khác như Thổ Công Từ, Cửu Đỉnh, Hiển Lâm Các, Canh Y điện, Tả Vu, Hữu Vu.
[center][/center]
Bên ngoài Thế Tổ Miếu, trước mặt là một chiếc sân rộng lát gạch Bát Tràng. Trên sân đặt 1 hàng 14 chiếc đôn đá, bên trên đặt các chậu sứ trồng hoa. Hai bên sân lại có một đôi kỳ lân bằng đồng đứng trong thiết đình. Cuối sân là chín chiếc đỉnh đồng to lớn (Cửu Đỉnh) đặt thẳng hàng với 9 gian thờ trong miếu. Tiếp theo là gác Hiển Lâm, 3 tầng cao vút, hai bên có lầu chuông, lầu trống nối liền với gác bằng một bờ tường gạch. Bên dưới lầu chuông, lầu trống trổ 2 cửa, Tuấn Liệt (bên trái) và Sùng Công(bên phải). Bên ngoài bờ tường này có 2 miếu nhỏ cũng được gọi là Tả Vu và Hữu Vu thờ các công thần, thân huân thời Nguyễn.
Thổ Công Từ và Canh Y điện đều là những tòa nhà hình vuông nằm đối xứng với nhau theo chiều đông-tây của Thế Tổ Miếu (điện Canh Y nằm ở phía đông đã bị hủy hoại từ lâu), ở sát thần phía tây của miếu còn có một cây thông cổ thụ, có hình dáng uốn lượn rất đẹp, tường truyền được trồng từ khi dựng Thế Tổ Miếu.
Hoàng thành Huế
Hoàng thành Huế là một thành-trong-thành, là nơi ở của hoàng đế, thờ cúng tổ tiên nhà Nguyễn, tường thành dài 2.5km và cao 6m. Sau thiệt hại nặng nề của bom đạn trong chiến tranh chống Pháp và Mỹ, chỉ có 20 trong số 148 tòa nhà trong thành còn sót lại. Việc khôi phục và cải tạo nơi này vẫn đang được tiến hành
[center] [/center]
Sẽ gặp rất nhiều nền vỡ, gạch vụn, miếng ốp lát bị nứt và cỏ dại khi bạn đi xung quanh đây. Tuy nhiên sẽ rất thú vị để đi dạo. Có một vài quán cà phê nhỏ và quầy hàng lưu niệm ở đây
Nên tham quan bắt đầu từ Ngọ Môn và di chuyển ngược chiều kim đồng hồ cho đến khi đi hết thành
Lăng Tự Đức
Ngôi mộ này được xây dựng giữa năm 1864 và 1867, là ngôi mộ ấn tượng trong những lăng mộ hoàng gia. Vua Tự Đức đã thiết kế nó trước khi ông chết. Nhưng việc mất mất một khoản chi phí khổng lồ và tình trạng cưỡng bức lao động trong quá trình xây dựng đã sinh ra một âm mưu đảo chính nhưng đã được phát hiện và đàn áp. Lăng Tự Đức cách kinh thành Huế 5km về phía Nam. trên đồi Văn Niên ở làng Dương Xuân Thượng.
[center] [/center]
Từ cổng vào, có một con đường dẫn đến hồ Lưu Khiêm. Giữa hồ có đảo Tịnh Khiêm, là nơi mà Tự Đức sử dụng để vui chơi. Trên khắp các nước bên trái là Xung Khiêm Tạ, nơi ông sẽ ngồi với thê thiếp của ông, sáng tác hoặc đọc thơ. Chùa Hòa Khiêm là nơi Tự Đức và vợ của ông, Hoàng hậu Hoàng Lê Thiện Anh, được thờ cúng - ngày nay là nơi lưu trữ đồ tạo tác của hoàng gia. Ngai vàng lớn hơn là cho hoàng hậu; ngai vàng của Vua Tự Đức chỉ cao 153cm. Minh Khiêm Phòng, bên phải phía sau chùa Hoa Khiêm, để nhà vua xem hát, được coi là một trong những nhà hát cổ nhất của Việt Nam hiện còn. Phía sau chùa Hoa Khiêm là Lương Đền Khiêm, dành riêng cho mẹ Tự Đức, Từ Dũ. Bạn sẽ đi qua người trông giữ voi, ngựa và các quan lại nhỏ bé (thậm chí còn nhỏ hơn vua) trước khi đến bia thờ, là một viên đá 20 tấn. Tự Đức soạn thảo chữ khắc lên. Ông tự thừa nhận mình đã sai lầm và đặt tên ngôi mộ của ông là Khiêm ( khiêm tốn ). Các ngôi mộ, được bao bọc bởi một bức tường, nằm phía bên kia của một đầm nhỏ. Đó là một đài tưởng niệm buồn tẻ; nơi hài cốt của ông được chôn cất (cùng với kho báu vĩ đại) không được biết đến. Để giữ bí mật từ những kẻ cướp mộ, tất cả 200 người tham gia chôn cất vua đều bị chặt đầu. Tự Đức đã sống một cuộc sống hoàng gia sang trọng và vượt quá nhục dục (ông có 104 vợ và vô số thê thiếp), mặc dù không có con cái.
Lăng Minh Mạng
Lăng mộ này nổi tiếng với kiến trúc và thiết lập hùng vĩ. Ngôi mộ được lên kế hoạch xây dựng trong suốt triều đại Minh Mạng (1820-1840) nhưng lại được xây dựng bởi người kế nhiệm của ông, Thiệu Trị.
[center] [/center]
Lăng Minh Mạng nằm ở làng An Bằng, trên bờ phía tây của sông Hương, cách 12km từ Huế.
Đền thờ An Sung, được dành riêng cho Minh Mạng và hoàng hậu của mình. Ở phía bên kia của ngôi đền làba cây cầu đá trải Trung Minh Hồ. Các cầu trung tâm chỉ thuộc quyền sử dụng của hoàng đế. Minh Lâu đứng trên đỉnh của ba bậc thang chồng đại diện cho ba cường quốc : trời, đất và nước.
Một cái hồ hình trăng non tên là Tân Nguyệt ôm lấy Bửu Thành, từ đây có một cầu thang hoành tráng với lan can trạm rồng dẫn đến mộ vua Minh Mạng. Cổng vào lăng mộ chỉ được mở ra một năm một lần vào ngày giỗ của hoàng đế.
Lăng Khải Định
Lăng mộ này là một sự tổng hợp của các yếu tố Việt Nam và châu Âu. Hầu hết phía ngoài hoành tráng của ngôi mộ được bao phủ bởi bê tông đen, tạo ra một dạng kiến trúc kiểu Gothic, trong khi nội thất giống như một vụ nổ của màu sắc. Khải Định là hoàng đế áp chót của Việt Nam, 1916-1925, và bị nhiều người coi là bù nhìn của Pháp. Việc xây dựng ngôi mộ rực rỡ của ông mất 11 năm. Lăng mộ của vua Khải Định nằm ở làng Châu Chữ cách 10km từ Huế vào
[center] [/center]
Bên dưới bửu tán là pho tượng đồng của Khải Định được đúc tại Pháp năm 1920, do 2 người Pháp là P. Ducing và F. Barbedienne thực hiện theo yêu cầu của vua Khải Định. Thi hài nhà vua được đưa vào dưới pho tượng bằng một toại đạo dài gần 30 m, bắt đầu từ phía sau Bi Đình. Phía sau ngôi mộ, vầng mặt trời đang lặn như biểu thị cái chết của vua.
Người chịu trách nhiệm chính trong việc kiến tạo những tuyệt tác nghệ thuật trong lăng Khải Định là nghệ nhân Phan Văn Tánh, tác giả của 3 bức bích họa Cửu long ẩn vân lớn vào bậc nhất Việt Nam được trang trí trên trần của 3 gian nhà giữa trong cung Thiên Định.
Lăng Gia Long
Hoàng đế Gia Long thành lập triều đại nhà Nguyễn vào năm 1802 và cai trị cho đến năm 1819. Cả hai vị hoàng đế và hoàng hậu của mình đều được chôn cất ở đây. Ngôi mộ hiếm khi có người đến thăm và hiện nay đang trong tình trạng đổ nát, nhưng việc phục hồi đang được bắt đầu. Nằm cách khoảng 14km về phía nam của Huế và 3km từ bờ phía tây của sông Hương.
[center] [/center]
Hổ Quyền
Hoang dại, um tùm nhưng gợi cảm, Hồ Quyền được xây dựng vào năm 1830 cho các trò tiêu khiển hoàng gia như xem voi và hổ đối mặt trong chiến đấu. Những con hổ (và báo hoa mai) thường được giải phóng để chiến đấu với những con voi - một biểu tượng quyền lực của hoàng đế. Leo lên thành lũy cỏ và tưởng tượng cảnh chiến đấu tại đấu trường cũ - những cuộc chiến cuối cùng đã được tổ chức vào năm 1904.
[center] [/center]
Phần phía Nam đã được dành riêng cho các gia đình hoàng gia. Hổ Quyền nằm ở bên ngoài thôn Trường Đà cách Huế khoảng 3km.
Chùa Diệu Đế
Nhìn ra Đồng Kênh Bà, chùa này được xây dựng dưới sự cai trị của Vua Thiệu Trị (1841-1847) và nổi tiếng với bốn tháp thấp của nó, một trong hai bên cửa thành, và hai chầu thánh. Các gian hàng ở hai bên lối vào cung thánh chứa 18 La Hà, chức danh chỉ dưới Bồ Tát, và tám Kim Cang, bảo vệ của Đức Phật. Trong hàng trở lại của bục chính là Phật Thích Ca, hai bên là hai trợ lý.
[center] [/center]
Diệu Đế là một thành trì của Phật giáo và phe đối lập sinh viên với chính phủ Việt Nam trong cuộc chiến chống Mỹ, và nhiều vụ bắt giữ đã được thực hiện ở đây khi cảnh sát xông vào tòa nhà vào năm 1966.
Cổng Ngọ Môn
Ngọ Môn là cổng chính phía nam của Hoàng thành Huế. Ngọ Môn có hai phần chính là: đài - cổng và lầu Ngũ Phụng.
Phần đài - cổng Có bình diện hình chữ U vuông góc, đáy dài 57,77 m, cạnh bên dài 27,6 m. Đài được xây bằng gạch đá kết hợp với các thanh dầm chịu lực bằng đồng thau. Đài cao gần 5 m, diện tích chiếm đất hơn 1560 m² (kể cả phần trong lòng chữ U). Thân đài trổ 5 lối đi. Lối chính giữa là Ngọ Môn, chỉ dành cho vua đi. Hai lối bên là Tả Giáp Môn và Hữu Giáp Môn, dành cho quan văn, võ theo cùng trong đoàn Ngự đạo. Hai lối đi bên ngoài cùng nằm ở hai cánh chữ U là Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn, dành cho binh lính và voi ngựa theo hầu.
[center] [/center]
Lầu Ngũ phụng là phần lầu đặt ở phía trên đài - cổng. Ngoài phần thân đài, lầu còn được tôn cao bởi một hệ thống nền cao 1,15 m cũng chạy suốt thân đài hình chữ U. Lầu có hai tầng, kết cấu bộ khung hoàn toàn bằng gỗ lim với chẳn 100 cây cột. Mái tầng dưới nối liền nhau, chạy vòng quanh để che cho phần hồi lang. Mái tầng trên chia thành 9 bộ, với rất nhiều hình chim phụng trang trí ở phần bờ nóc, bờ quyết, khiến tòa lầu trông rất nhẹ nhàng, thanh thoát. Bộ mái chính giữa của lầu Ngũ Phụng lợp ngói lưu ly màu vàng, tám bộ còn lại lợp ngói lưu ly màu xanh
[center] [/center]
Ngọ Môn cũng là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Nơi đây ngày xưa vẫn thường diễn ra các lễ lạc quan trọng nhất của triều Nguyễn như lễ Ban sóc (ban lịch mới), Truyền Lô (tuyên đọc tên tiến sĩ tân khoa)... Ngày 25 tháng 8 năm 1945, tại cửa Ngọ Môn, vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của Việt Nam, đã đọc Tuyên ngôn Thoái vị và trao chính quyền lại cho chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Câu ca dao sau đây xuất hiện khi có cửa Ngọ Môn:
Ngọ Môn 5 cửa 9 lầu
1 lầu vàng 8 lầu xanh
3 cửa thẳng 2 cửa quanh...
Chùa Từ Hiếu
Ẩn mình trong một rừng thông, ngôi chùa nổi tiếng này được xây dựng vào năm 1843
Từ Hiếu gắn liền với Thiền sư Thích Nhất Hạnh, người đã học tại tu viện trong những năm 1940, nhưng đã sống lưu vong hơn 40 năm, và chỉ được phép trở về Việt Nam vào năm 2005.
[center] [/center]
Đàn Nam Giao
Là nơi các vua nhà Nguyễn tổ chức lễ tế trời đất vào mùa xuân hàng năm, thuộc địa phận phường Trường An, thành phố Huế. Đây là đàn Nam Giao duy nhất còn hiện hữu (dù trong tình trạng không còn nguyên vẹn) ở Việt Nam, cũng là đàn tế duy nhất còn tồn tại trong số nhiều đàn tế cổ ở Huế.
[center] [/center]
Điện Thái Hoà
Cung điện này (1803) là một đại sảnh rộng rãi với một mái nhà gỗ trang trí công phu hỗ trợ bởi 80 cột chạm khắc và sơn mài. Được sử dụng để tiếp khách chính thức của hoàng đế và các nghi lễ quan trọng. Trong những dịp này nhà vua ngồi trên ngai cao của mình, đối diện với khách nhập cảnh qua Ngọ Môn.
[center] [/center]
Cửu Vị Thần Công
Nằm ngay bên trong Hoàng thành, trước cửa Ngọ Môn – kinh thành Huế (1804), là biểu tượng bảo vệ của cung điện và đất nước. Được ủy quyền làm bởi Hoàng đế Gia Long. Bốn khẩu pháo gần Ngân Cổng đại diện cho bốn mùa, trong khi năm khẩu pháo bên cạnh cửa Quảng Đức đại diện cho năm yếu tố: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
[center] [/center]
Mỗi pháo đồng dài 5m và nặng khoảng 10 tấn.
Kỳ Đài
Tại trung tâm của bức tường đối diện với sông, Kỳ Đài cao 37m là cột cờ cao nhất của Việt Nam. Được xây dựng từ năm 1809 và được mở rộng vào năm 1831, bị đánh xuống vào năm 1904 bởi một cơn bão tàn phá thành phố. Nó được xây dựng lại vào năm 1915 chỉ bị phá hủy một lần nữa vào năm 1947. Hai năm sau, nó được dựng lên một lần nữa, như hình ảnh hiện tại của nó.
[center] [/center]
Vĩ Thanh dịch và sưu tầm
[i]Copy - Paste vui lòng ghi rõ nguồn Ola88.com[/i]
Đăng nhập để bình luận: