Trở lại vụ án Lệ Chi Viên với các tư liệu được tìm tòi thêm
Những gì sắp trình bày ở đây không phải là hoàn toàn mới, bởi trước đây các nhà nghiên cứu ít nhiều đã đề cập về vấn đề này rồi. Nhưng cái mới ở đây là trên cơ sở kế thừa thành tựu đã có, kết hợp tìm tòi thêm tư liệu, bài viết này nêu lại một cách có hệ thống xung quanh vụ án Lệ Chi Viên oan nghiệt, đã tàn hại cả một tộc họ, nhất là tiêu diệt một con người tài hoa, uyên bác, lịch lãm và vĩ đại cách đây 577 năm!
1. Về cái chết đột ngột của vua Lê Thái Tông và bản án tru di tam tộc
Sách Đại Việt sử ký toàn thư – Bản kỷ thực lục – quyển XI chép: Nhâm Tuất (tức 1442), Đại Bảo năm thứ 3, mùa thu, tháng 7, ngày 27, vua Thái Tông đi tuần về miền Đông, duyệt binh ở thành Chí Linh. Nguyễn Trãi đón vua ngự ở chùa Côn Sơn, ở hương của Nguyễn Trãi .
[center]
Vua Trần Thái Tông
[/center]
Khoảng mười ngày sau, trên đường về lại Thăng Long bằng thuyền rồng, vua Thái Tông (trị vì 1433-1442) mất đột ngột tại vườn Vải: “Tháng 8 ngày mồng 4 (tức ngày 07 tháng 9 năm 1442) vua về đến vườn Lệ Chi, huyện Gia Định, bỗng bị bệnh ác rồi băng hà.
Trước đây vua thích vợ của Thừa chỉ Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, người đẹp, văn chương hay, gọi vào cung cho làm Lễ nghi học sĩ, ngày đêm hầu hạ bên cạnh. Đến khi đi tuần miền Đông, về đến vườn Lệ Chi, xã Đại Lại trên sông Thiên Đức, vua thức suốt đêm với Thị Lộ rồi băng. Các quan bí mật đưa về, ngày mồng 6 đến kinh sư, nửa đêm đem vào cung mới phát tang. Mọi người đều nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua.
Ngày 16 tháng 8 (tức ngày 19 tháng 9 năm 1442), giết Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ lẽ là Nguyễn Thị Lộ, giết đến 3 đời. Trước là Nguyễn Thị Lộ ra vào cung cấm, Thái Tông trông thấy thích lắm, cùng với Thị Lộ cợt nhả, đến đây đi tuần về miền Đông, đến chơi nhà Trãi rồi bị bệnh ác mà chết, cho nên Trãi bị tội ấy.
Đây là bộ chính sử đầu tiên viết về vụ án Lệ Chi viên. Bộ sử này được sử thần Ngô Sĩ Liên biên soạn vào năm 1479 theo lệnh vua Lê Thánh Tông, tức 37 năm sau khi xảy ra vụ thảm án.
Cần lưu ý, dù chính sử có ghi: [i]“Trước đây vua thích vợ của Thừa chỉ Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, người đẹp, văn chương hay, gọi vào cung cho làm Lễ nghi học sĩ, ngày đêm hầu hạ bên cạnh”[/i] và : [i]“Trước là Nguyễn Thị Lộ ra vào cung cấm, Thái Tông trông thấy thích lắm, cùng với Thị Lộ cợt nhả”[/i]
nhưng theo tôi việc này nên xem xét lại. Bởi lẽ, theo thiển nghĩ, trong hậu cung của Lê Thái Tông thiếu gì phi tần mỹ nữ trẻ trung đẹp đẽ, tại sao nhà vua lại mê đắm một phụ nữ đã có chồng, lớn hơn mình đến 30 tuổi, tức hơn tuổi của mẹ mình?
2. Các triều đại minh oan cho Nguyễn Trãi (Hiệu Ức Trai)
Sau vụ án Lệ Chi viên oan nghiệt không lâu thì vua Lê Nhân Tông (trị vì 1442-1459) có lần đến Bí thư các, đã đọc Dư địa chícủa Nguyễn Trãi, có phát biểu rằng: [i]“Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp loạn tặc, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi các danh tướng của bản triều không ai sánh bằng, không may bị người đàn bà gây biến, để người lương thiện mắc tội rất là đáng thương” [/i] .
[center] [/center]
Lời nói trên của nhà vua đã hàm ý minh oan cho Ức Trai, dù đó chỉ là lời phát biểu, có thể xem như lời dụ, chứ chưa phải là văn bản chính thức, mà sau này Lý Tử Tấn, người bạn đồng khoa, đồng liêu với Nguyễn Trãi có ghi lại trong phần Thông luận sách Dư địa chí. Nhưng lời phát biểu đó lại đổ hết mọi tội lỗi cho bà Nguyễn Thị Lộ!
Đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông (trị vì 1460-1497), mới chính thức ban chiếu minh oan cho Ức Trai, truy tặng tước Tán trù bá, sai tìm con cháu còn sót lại của ông để bổ chức quan, cấp 100 mẫu ruộng để tế tự. Rồi ba năm sau (1467), lại ban chiếu sai văn thần Trần Khắc Kiệm sưu tầm thơ văn còn lại của ông (bộ sưu tầm này đã mất, hiện chỉ còn bài Tựa viết năm 1480). Tiếp theo, năm 1494, nhà vua còn ngợi ca Nguyễn Trãi trong bài Minh lương qua câu thơ: Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo.
Câu hỏi đặt ra ở đây là, tại sao Thánh Tông chỉ chiêu tuyết cho cụ Nguyễn Trãi mà không minh oan cho bà Nguyễn Thị Lộ, lại truy tặng tước thấp hơn trước một bậc, trong khi vợ chồng Nguyễn Trãi lại là ân nhân của mẹ con nhà vua? Thiển nghĩ, đây là một vấn đề tế nhị trong nội bộ hoàng tộc, lại là chuyện đã lỡ rồi và có lẽ nhà vua không muốn khơi lại chuyện đau lòng đã qua, tốt nhất là cứ theo lời kết tội cũ cho yên chuyện.
Sau đó, các triều đại nhiều lần minh oan Nguyễn Trãi bằng cách gia phong tước, chẳng hạn: năm Nhâm Thân (1512), vua Lê Tương Dực (trị vì 1510-1516) truy tặng tước Tế Văn hầu; năm Nhâm Ngọ (1822), vua Nguyễn Thánh Tổ Minh Mạng (trị vì 1820-1840), truy phong tước Khê Quận công, ban chiếu sai văn thần Dương Bá Cung là người cùng làng Nhị Khê, sưu tầm di văn của Nguyễn Trãi, dịp này ông cùng Nguyễn Thâm (là cháu trực hệ của Nguyễn Trãi) soạn lại gia phả họ Nguyễn ở Nhị Khê, và viết lời Tựa. Công trình của Dương Bá Cung Ức Trai di tập gồm 07 quyển được Phúc Khê đường khắc in vào năm Mậu Thìn (1868) dưới đời Tự Đức (trị vì 1847-1883).
[center]
[/center]
Ở đây, giữa lời chính sử đã ghi và lời chiếu của triều đình minh oan có mâu thuẫn. Bởi lẽ, nếu sau năm 1442, Lê Nhân Tông khi đọc Dư địa chí có phát biểu với ý minh oan Nguyễn Trãi và trách bà Lộ, thì đến năm 1464 và 1467, vua Lê Thánh Tông đã chính thức ban chiếu minh oan. Điều đó cho thấy trong suy nghĩ và dưới cái nhìn của các vị hoàng đế bấy giờ, Nguyễn Trãi là vô tội.
Vậy mà khi phụng chiếu viết sử vào năm 1479, Ngô Sĩ Liên đã chép theo lời kết luận của toà Đại hình là gán cho bà Lộ cái tội đã giết vua, làm vạ lây đến Nguyễn Trãi và ba đời của tộc họ này! Điều đó có nghĩa, bà Lộ là thủ phạm và Nguyễn Trãi là tòng phạm. Việc này, sử thần họ Ngô có lời bàn: [i]“Nữ sắc làm hại người quá lắm thay. Thị Lộ là một người đàn bà thôi. Thái Tông yêu nó mà thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà cả họ bị diệt, chẳng nên răn lắm ư?”[/i].
Trong khi đó, theo “Ngọc phả họ Đinh” thì Toà Đại hình do Tuyên Từ Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Anh và hoàng đế Lê Nhân Tông (mới 2 tuổi) chủ toạ phiên toà, Đại Đô đốc Thái sư Lân Quốc công Đinh Liệt làm chánh án xét xử vào ngày 19 tháng 9 năm 1442, có chép lại lời của Hoàng Thái hậu rằng: Nguyễn Trãi chủ mưu sai Thị Lộ đầu độc nhà vua [7], tức Nguyễn Trãi là thủ phạm và bà Lộ là tòng phạm. Vậy thực hư của vụ án ra sao?
3. Vì sao có vụ án oan nghiệt trên?
Trả lời câu hỏi này cho tường minh, thật không dễ dàng gì. Mặc dù lời ghi của bộ Đại Việt sử ký toàn thư triều Lê là lời chính thống, chẳng nên bàn cãi, dù bản thân tôi có nghi ngờ về ngòi bút của sử thần họ Ngô khi viết về vụ án này, bởi khi chép sử, có thể vị sử thần bị một thế lực nào đó thúc ép chăng, nhưng qua thời gian, lần theo manh mối từ những mảnh vụn lịch sử cách đây trên năm thế kỷ rưỡi, rồi chắp nối chúng lại, có thể nêu lại đầu mối sự việc như sau:
Một là, vợ chồng Nguyễn Trãi từng xin vua Thái Tông để giải thoát cho bà phi Ngô Thị Ngọc Dao ra khỏi lãnh cung. Sự việc theo lời truyền như sau:
Khoảng gần cuối năm 1441, bà Tiệp dư Ngọc Dao nhân nằm mộng thấy tiên đồng ôm mặt trăng nhảy vào lòng, nhân đó bà có mang. Chi tiết thụ thai thần kỳ đó là điềm lành dự báo sẽ sinh quý tử, thánh nhân. Việc này đã làm cho Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh lo sợ và không thích, bởi có liên đới đến địa vị của con trai mình sau này. Trước đó, một bà phi khác tên Huệ cũng nằm mộng thấy mặt trời mà có mang.
Bà Hoàng hậu lập mưu hãm hại bà phi này, bằng cách cho tay chân thân tín chôn hình nhân ở cung của bà phi Huệ, rồi vu cáo bà này mời đạo sĩ vào cung trấn ếm. Tiếp theo Hoàng hậu lại vu cho bà phi Ngọc Dao có liên can đến vụ của bà phi Huệ, nên cũng bị giam ở lãnh cung. Lúc này (từ năm 1440 trở đi), Nguyễn Trãi trở lại triều đình làm quan và Nguyễn Thị Lộ đang giữ chức Lễ nghi học sĩ trong cung.
Cả hai vợ chồng ông được vua Thái Tông sủng ái, tin cậy, nhờ thế mới có điều kiện xin vua tha cho bà Ngô Thị Ngọc Dao (Bà này là ái nữ của Ngô Từ, một đại thần lo việc hậu cần thời Lam Sơn khởi nghĩa, mà Ngô Từ là người đã giúp Nguyễn Trãi yết kiến Lê Lợi tại Lỗi Giang, dâng Bình Ngô sách vào năm 1421, khi ông trở lại Lam Sơn lần thứ hai). Cho nên việc cụ Ức Trai cứu con gái của bạn là hợp đạo lý và cũng là cách trả ơn khi xưa bạn đã từng giúp mình.
Vợ chồng Nguyễn Trãi đã đưa bà Ngọc Dao ra tá túc tại chùa Huy Văn (nay ở đường Chùa Bộc, Hà Nội) và đã sinh hoàng tử Tư Thành ở đấy vào ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (dương lịch 24-8-1442). Sau đó lại đưa mẹ con bà Ngọc Dao về tá túc tại một ngôi chùa ở Từ Liêm (hiện chùa mang tên Thánh Chúa, nằm trong khuôn viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tên chùa là do vua Lê Thánh Tông đặt khi mới lên ngôi, ý nói nơi đây vị chúa thánh minh đã từng tá túc). Việc này, văn bia ở hai ngôi chùa trên có ghi lại; tiếp theo Nguyễn Trãi mới đưa mẹ con bà Ngọc Dao ra trú ở vùng An Bang (nay là Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh), nơi ông trị nhậm với cương vị Ngự sử Đông Bắc đạo. Việc làm đó, vô tình vợ chồng Nguyễn Trãi đã chuốc vạ vào thân, và đã trở thành cây đinh, thành đối thủ, thành kẻ thù số một của Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh.
Hai là, trước đó Nguyễn Trãi từng được nghe Đinh Phúc, Đinh Thắng là Tổng quản nội quan trong cung, ngầm báo cho biết chuyện bà Nguyễn Thị Anh được tiến cung làm Hoàng hậu rồi chỉ mới sáu tháng sau thì sinh ra Bang Cơ! Điều đó có nghĩa, Bang Cơ chưa chắc là con đẻ của Thái Tông. Chính Ngọc phả họ Đinh có chép lại bài thơ của Thái sư Đinh Liệt nói về chuyện này:
[center][i]
茸新六个月開花,
不識何人寶種多.
主靠送胎為靈藥,
舊瓶新酒盛醫科.[/i][/center]
Phiên âm:
[center]
[i]Nhung tân lục cá nguyệt khai hoa,
Bất thức hà nhân chủng bảo đa?
Chủ kháo tống thai vi linh dược,
Cựu bình tân tửu thịnh y khoa.[/i][/center]
Bài thơ với ẩn ý sâu xa, vị Thái sư đã dùng hình thức chơi chữ kiểu nói lái để hé lộ một sự thật trong thâm cung triều đại Thái Tông, vạch rõ thủ đoạn của Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh, và nói rõ bí mật gốc gác của vị vua thứ ba vương triều Hậu Lê sơ: “nhung tân” đọc thành “Nhân Tông” tức Thái tử Bang Cơ; “tống thai” đọc thành “Thái Tông”; “thịnh y” (thịnh còn đọc là thạnh) nên “thạnh y” đọc thành “Thị Anh”. Từ đó, có thể dịch nghĩa bài thơ như sau:
[i]Nhân Tông [cái mầm non (nhung tân)] mới sáu tháng đã sinh ra,
Chẳng biết dòng giống quý của người nào đây?
Nương dựa Thái Tông [bằng cách tặng biếu cái thai (tống thai)] để làm vị thuốc hiệu nghiệm,
Bình cũ rượu mới là cách thức của Thị Anh [nền y học phát triển (thịnh y)].
Dịch thơ: Nhân Tông sáu tháng đã sinh ra,
Dòng giống nhà ai, chẳng quý a?
Nương dựa Thái Tông làm thuốc báu,
Thị Anh dùng mẹo đổi dòng cha.[/i]
(NCL dịch)
1. Về cái chết đột ngột của vua Lê Thái Tông và bản án tru di tam tộc
Sách Đại Việt sử ký toàn thư – Bản kỷ thực lục – quyển XI chép: Nhâm Tuất (tức 1442), Đại Bảo năm thứ 3, mùa thu, tháng 7, ngày 27, vua Thái Tông đi tuần về miền Đông, duyệt binh ở thành Chí Linh. Nguyễn Trãi đón vua ngự ở chùa Côn Sơn, ở hương của Nguyễn Trãi .
[center]
Vua Trần Thái Tông
[/center]
Khoảng mười ngày sau, trên đường về lại Thăng Long bằng thuyền rồng, vua Thái Tông (trị vì 1433-1442) mất đột ngột tại vườn Vải: “Tháng 8 ngày mồng 4 (tức ngày 07 tháng 9 năm 1442) vua về đến vườn Lệ Chi, huyện Gia Định, bỗng bị bệnh ác rồi băng hà.
Trước đây vua thích vợ của Thừa chỉ Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, người đẹp, văn chương hay, gọi vào cung cho làm Lễ nghi học sĩ, ngày đêm hầu hạ bên cạnh. Đến khi đi tuần miền Đông, về đến vườn Lệ Chi, xã Đại Lại trên sông Thiên Đức, vua thức suốt đêm với Thị Lộ rồi băng. Các quan bí mật đưa về, ngày mồng 6 đến kinh sư, nửa đêm đem vào cung mới phát tang. Mọi người đều nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua.
Ngày 16 tháng 8 (tức ngày 19 tháng 9 năm 1442), giết Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ lẽ là Nguyễn Thị Lộ, giết đến 3 đời. Trước là Nguyễn Thị Lộ ra vào cung cấm, Thái Tông trông thấy thích lắm, cùng với Thị Lộ cợt nhả, đến đây đi tuần về miền Đông, đến chơi nhà Trãi rồi bị bệnh ác mà chết, cho nên Trãi bị tội ấy.
Đây là bộ chính sử đầu tiên viết về vụ án Lệ Chi viên. Bộ sử này được sử thần Ngô Sĩ Liên biên soạn vào năm 1479 theo lệnh vua Lê Thánh Tông, tức 37 năm sau khi xảy ra vụ thảm án.
Cần lưu ý, dù chính sử có ghi: [i]“Trước đây vua thích vợ của Thừa chỉ Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, người đẹp, văn chương hay, gọi vào cung cho làm Lễ nghi học sĩ, ngày đêm hầu hạ bên cạnh”[/i] và : [i]“Trước là Nguyễn Thị Lộ ra vào cung cấm, Thái Tông trông thấy thích lắm, cùng với Thị Lộ cợt nhả”[/i]
nhưng theo tôi việc này nên xem xét lại. Bởi lẽ, theo thiển nghĩ, trong hậu cung của Lê Thái Tông thiếu gì phi tần mỹ nữ trẻ trung đẹp đẽ, tại sao nhà vua lại mê đắm một phụ nữ đã có chồng, lớn hơn mình đến 30 tuổi, tức hơn tuổi của mẹ mình?
2. Các triều đại minh oan cho Nguyễn Trãi (Hiệu Ức Trai)
Sau vụ án Lệ Chi viên oan nghiệt không lâu thì vua Lê Nhân Tông (trị vì 1442-1459) có lần đến Bí thư các, đã đọc Dư địa chícủa Nguyễn Trãi, có phát biểu rằng: [i]“Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp loạn tặc, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi các danh tướng của bản triều không ai sánh bằng, không may bị người đàn bà gây biến, để người lương thiện mắc tội rất là đáng thương” [/i] .
[center] [/center]
Lời nói trên của nhà vua đã hàm ý minh oan cho Ức Trai, dù đó chỉ là lời phát biểu, có thể xem như lời dụ, chứ chưa phải là văn bản chính thức, mà sau này Lý Tử Tấn, người bạn đồng khoa, đồng liêu với Nguyễn Trãi có ghi lại trong phần Thông luận sách Dư địa chí. Nhưng lời phát biểu đó lại đổ hết mọi tội lỗi cho bà Nguyễn Thị Lộ!
Đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông (trị vì 1460-1497), mới chính thức ban chiếu minh oan cho Ức Trai, truy tặng tước Tán trù bá, sai tìm con cháu còn sót lại của ông để bổ chức quan, cấp 100 mẫu ruộng để tế tự. Rồi ba năm sau (1467), lại ban chiếu sai văn thần Trần Khắc Kiệm sưu tầm thơ văn còn lại của ông (bộ sưu tầm này đã mất, hiện chỉ còn bài Tựa viết năm 1480). Tiếp theo, năm 1494, nhà vua còn ngợi ca Nguyễn Trãi trong bài Minh lương qua câu thơ: Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo.
Câu hỏi đặt ra ở đây là, tại sao Thánh Tông chỉ chiêu tuyết cho cụ Nguyễn Trãi mà không minh oan cho bà Nguyễn Thị Lộ, lại truy tặng tước thấp hơn trước một bậc, trong khi vợ chồng Nguyễn Trãi lại là ân nhân của mẹ con nhà vua? Thiển nghĩ, đây là một vấn đề tế nhị trong nội bộ hoàng tộc, lại là chuyện đã lỡ rồi và có lẽ nhà vua không muốn khơi lại chuyện đau lòng đã qua, tốt nhất là cứ theo lời kết tội cũ cho yên chuyện.
Sau đó, các triều đại nhiều lần minh oan Nguyễn Trãi bằng cách gia phong tước, chẳng hạn: năm Nhâm Thân (1512), vua Lê Tương Dực (trị vì 1510-1516) truy tặng tước Tế Văn hầu; năm Nhâm Ngọ (1822), vua Nguyễn Thánh Tổ Minh Mạng (trị vì 1820-1840), truy phong tước Khê Quận công, ban chiếu sai văn thần Dương Bá Cung là người cùng làng Nhị Khê, sưu tầm di văn của Nguyễn Trãi, dịp này ông cùng Nguyễn Thâm (là cháu trực hệ của Nguyễn Trãi) soạn lại gia phả họ Nguyễn ở Nhị Khê, và viết lời Tựa. Công trình của Dương Bá Cung Ức Trai di tập gồm 07 quyển được Phúc Khê đường khắc in vào năm Mậu Thìn (1868) dưới đời Tự Đức (trị vì 1847-1883).
[center]
[/center]
Ở đây, giữa lời chính sử đã ghi và lời chiếu của triều đình minh oan có mâu thuẫn. Bởi lẽ, nếu sau năm 1442, Lê Nhân Tông khi đọc Dư địa chí có phát biểu với ý minh oan Nguyễn Trãi và trách bà Lộ, thì đến năm 1464 và 1467, vua Lê Thánh Tông đã chính thức ban chiếu minh oan. Điều đó cho thấy trong suy nghĩ và dưới cái nhìn của các vị hoàng đế bấy giờ, Nguyễn Trãi là vô tội.
Vậy mà khi phụng chiếu viết sử vào năm 1479, Ngô Sĩ Liên đã chép theo lời kết luận của toà Đại hình là gán cho bà Lộ cái tội đã giết vua, làm vạ lây đến Nguyễn Trãi và ba đời của tộc họ này! Điều đó có nghĩa, bà Lộ là thủ phạm và Nguyễn Trãi là tòng phạm. Việc này, sử thần họ Ngô có lời bàn: [i]“Nữ sắc làm hại người quá lắm thay. Thị Lộ là một người đàn bà thôi. Thái Tông yêu nó mà thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà cả họ bị diệt, chẳng nên răn lắm ư?”[/i].
Trong khi đó, theo “Ngọc phả họ Đinh” thì Toà Đại hình do Tuyên Từ Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Anh và hoàng đế Lê Nhân Tông (mới 2 tuổi) chủ toạ phiên toà, Đại Đô đốc Thái sư Lân Quốc công Đinh Liệt làm chánh án xét xử vào ngày 19 tháng 9 năm 1442, có chép lại lời của Hoàng Thái hậu rằng: Nguyễn Trãi chủ mưu sai Thị Lộ đầu độc nhà vua [7], tức Nguyễn Trãi là thủ phạm và bà Lộ là tòng phạm. Vậy thực hư của vụ án ra sao?
3. Vì sao có vụ án oan nghiệt trên?
Trả lời câu hỏi này cho tường minh, thật không dễ dàng gì. Mặc dù lời ghi của bộ Đại Việt sử ký toàn thư triều Lê là lời chính thống, chẳng nên bàn cãi, dù bản thân tôi có nghi ngờ về ngòi bút của sử thần họ Ngô khi viết về vụ án này, bởi khi chép sử, có thể vị sử thần bị một thế lực nào đó thúc ép chăng, nhưng qua thời gian, lần theo manh mối từ những mảnh vụn lịch sử cách đây trên năm thế kỷ rưỡi, rồi chắp nối chúng lại, có thể nêu lại đầu mối sự việc như sau:
Một là, vợ chồng Nguyễn Trãi từng xin vua Thái Tông để giải thoát cho bà phi Ngô Thị Ngọc Dao ra khỏi lãnh cung. Sự việc theo lời truyền như sau:
Khoảng gần cuối năm 1441, bà Tiệp dư Ngọc Dao nhân nằm mộng thấy tiên đồng ôm mặt trăng nhảy vào lòng, nhân đó bà có mang. Chi tiết thụ thai thần kỳ đó là điềm lành dự báo sẽ sinh quý tử, thánh nhân. Việc này đã làm cho Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh lo sợ và không thích, bởi có liên đới đến địa vị của con trai mình sau này. Trước đó, một bà phi khác tên Huệ cũng nằm mộng thấy mặt trời mà có mang.
Bà Hoàng hậu lập mưu hãm hại bà phi này, bằng cách cho tay chân thân tín chôn hình nhân ở cung của bà phi Huệ, rồi vu cáo bà này mời đạo sĩ vào cung trấn ếm. Tiếp theo Hoàng hậu lại vu cho bà phi Ngọc Dao có liên can đến vụ của bà phi Huệ, nên cũng bị giam ở lãnh cung. Lúc này (từ năm 1440 trở đi), Nguyễn Trãi trở lại triều đình làm quan và Nguyễn Thị Lộ đang giữ chức Lễ nghi học sĩ trong cung.
Cả hai vợ chồng ông được vua Thái Tông sủng ái, tin cậy, nhờ thế mới có điều kiện xin vua tha cho bà Ngô Thị Ngọc Dao (Bà này là ái nữ của Ngô Từ, một đại thần lo việc hậu cần thời Lam Sơn khởi nghĩa, mà Ngô Từ là người đã giúp Nguyễn Trãi yết kiến Lê Lợi tại Lỗi Giang, dâng Bình Ngô sách vào năm 1421, khi ông trở lại Lam Sơn lần thứ hai). Cho nên việc cụ Ức Trai cứu con gái của bạn là hợp đạo lý và cũng là cách trả ơn khi xưa bạn đã từng giúp mình.
Vợ chồng Nguyễn Trãi đã đưa bà Ngọc Dao ra tá túc tại chùa Huy Văn (nay ở đường Chùa Bộc, Hà Nội) và đã sinh hoàng tử Tư Thành ở đấy vào ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (dương lịch 24-8-1442). Sau đó lại đưa mẹ con bà Ngọc Dao về tá túc tại một ngôi chùa ở Từ Liêm (hiện chùa mang tên Thánh Chúa, nằm trong khuôn viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tên chùa là do vua Lê Thánh Tông đặt khi mới lên ngôi, ý nói nơi đây vị chúa thánh minh đã từng tá túc). Việc này, văn bia ở hai ngôi chùa trên có ghi lại; tiếp theo Nguyễn Trãi mới đưa mẹ con bà Ngọc Dao ra trú ở vùng An Bang (nay là Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh), nơi ông trị nhậm với cương vị Ngự sử Đông Bắc đạo. Việc làm đó, vô tình vợ chồng Nguyễn Trãi đã chuốc vạ vào thân, và đã trở thành cây đinh, thành đối thủ, thành kẻ thù số một của Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh.
Hai là, trước đó Nguyễn Trãi từng được nghe Đinh Phúc, Đinh Thắng là Tổng quản nội quan trong cung, ngầm báo cho biết chuyện bà Nguyễn Thị Anh được tiến cung làm Hoàng hậu rồi chỉ mới sáu tháng sau thì sinh ra Bang Cơ! Điều đó có nghĩa, Bang Cơ chưa chắc là con đẻ của Thái Tông. Chính Ngọc phả họ Đinh có chép lại bài thơ của Thái sư Đinh Liệt nói về chuyện này:
[center][i]
茸新六个月開花,
不識何人寶種多.
主靠送胎為靈藥,
舊瓶新酒盛醫科.[/i][/center]
Phiên âm:
[center]
[i]Nhung tân lục cá nguyệt khai hoa,
Bất thức hà nhân chủng bảo đa?
Chủ kháo tống thai vi linh dược,
Cựu bình tân tửu thịnh y khoa.[/i][/center]
Bài thơ với ẩn ý sâu xa, vị Thái sư đã dùng hình thức chơi chữ kiểu nói lái để hé lộ một sự thật trong thâm cung triều đại Thái Tông, vạch rõ thủ đoạn của Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh, và nói rõ bí mật gốc gác của vị vua thứ ba vương triều Hậu Lê sơ: “nhung tân” đọc thành “Nhân Tông” tức Thái tử Bang Cơ; “tống thai” đọc thành “Thái Tông”; “thịnh y” (thịnh còn đọc là thạnh) nên “thạnh y” đọc thành “Thị Anh”. Từ đó, có thể dịch nghĩa bài thơ như sau:
[i]Nhân Tông [cái mầm non (nhung tân)] mới sáu tháng đã sinh ra,
Chẳng biết dòng giống quý của người nào đây?
Nương dựa Thái Tông [bằng cách tặng biếu cái thai (tống thai)] để làm vị thuốc hiệu nghiệm,
Bình cũ rượu mới là cách thức của Thị Anh [nền y học phát triển (thịnh y)].
Dịch thơ: Nhân Tông sáu tháng đã sinh ra,
Dòng giống nhà ai, chẳng quý a?
Nương dựa Thái Tông làm thuốc báu,
Thị Anh dùng mẹo đổi dòng cha.[/i]
(NCL dịch)
Đăng nhập để bình luận: