Truyện kiều chương III. Kiều bán mình chuộc cha (2)

Ngày đăng: 25/12/2014

Bề ngoài mười dặm trường đình,

Vương ông mở tiệc tiễn hành đưa theo.

Ngoài thì chủ khách dập dìu,

Một nhà huyên với một Kiều ở trong.

875. Nhìn càng lã chã giọt hồng,

Rỉ tai nàng mới giãi lòng thấp cao:

Hổ sinh ra phận thơ đào,

Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?

Lỡ làng nước ***c bụi trong,

880. Trăm năm để một tấm lòng từ đây.

Xem gương trong bấy nhiêu ngày,

Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già!

Khi về bỏ vắng trong nhà,

Khi vào dùng dắng khi ra vội vàng.

885. Khi ăn khi nói lỡ làng,

Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh.

Khác màu kẻ quý người thanh,

Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn.

Thôi con còn nói chi con?

890. Sống nhờ đất khách thác chôn quê người!

Vương bà nghe bấy nhiêu lời,

Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên.

Vài tuần chưa cạn chén khuyên.

Mái ngoài nghỉ đã giục liền ruổi xe.

895. Xót con lòng nặng trì trì,

Trước yên ông đã nằn nì thấp cao:

Chút thân yếu liễu tơ đào,

Rớp nhà đến nỗi giấn vào tôi ngươi.

Từ đây góc bể bên trời,

900. Nắng mưa thui thủi quê người một thân.

Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân,

Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.

Cạn lời khách mới thưa rằng:

Buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao.

905. Mai sau dầu đến thế nào,

Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỉ thần!

Đùng đùng gió giục mây vần,

Một xe trong cõi hồng trần như bay.

Trông vời gạt lệ chia tay,

910. Góc trời thăm thẳm đêm ngày đăm đăm.

Nàng thì dặm khách xa xăm,

Bạc phau cầu giá đen rầm ngàn mây.

Vi lô san sát hơi may,

Một trời thu để riêng ai một người.

915. Dặm khuya ngất tạnh mù khơi,

Thấy trăng mà thẹn những lời non sông.

Rừng thu từng biếc xen hồng,

Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn.
Những là lạ nước lạ non,

920. Lâm Truy vừa một tháng tròn tới nơi.

Xe châu dừng bánh cửa ngoài,

Rèm trong đã thấy một người bước ra.

Thoắt trông nhờn nhợt màu da,

Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao!

925. Trước xe lơi lả han chào,

Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi.

Bên thì mấy ả mày ngài,

Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi.

Giữa thì hương án hẳn hoi,

930. Trên treo một tượng trắng đôi lông mày.

Lầu xanh quen lối xưa nay,

Nghề này thì lấy ông này tiên sư,

Hương hôm hoa sớm phụng thờ.

Cô nào xấu vía có thưa mối hàng,

935. Cởi xiêm lột áo sỗ sàng,

Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm.

Đổi hoa lót xuống chiếu nằm,

Bướm hoa bay lại ầm ầm tứ vi!

Kiều còn ngơ ngẩn biết gì,

940. Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay:

Cửa hàng buôn bán cho may,

Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu.

Muôn nghìn người thấy cũng yêu,

Xôn xao oanh yến rập rìu trúc mai.

945. Tin nhạn vẩn lá thư bài,

Đưa người cửa trước rước người cửa sau.

Lạ tai nghe chửa biết đâu,

Xem tình ra cũng những màu dở dang.

Lễ xong hương hỏa gia đường,

950. Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay.

Dạy rằng: Con lạy mẹ đây,

Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia.

Nàng rằng: Phải bước lưu ly,

Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh.

955. Điều đâu lấy yến làm oanh,

Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì?

Đủ điều nạp thái vu qui,

Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi.

Giờ ra thay mặt đổi ngôi,

960. Dám xin gửi lại một lời cho minh.

Mụ nghe nàng nói hay tình,

Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên:

Này này sự đã quả nhiên,

Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi.

965. Bảo rằng đi dạo lấy người,

Đem về rước khách kiếm lời mà ăn.

Tuồng vô nghĩa ở bất nhân,

Buồn mình trước đã tần mần thử chơi.

Màu hồ đã mất đi rồi,

970. Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!

Con kia đã bán cho ta,

Nhập ra phải cứ phép nhà tao đây.

Lão kia có giở bài bây,

Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe.

975. Cớ sao chịu tốt một bề,

Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao?

Phải làm cho biết phép tao!

Chập bì tiên rắp sấn vào ra tay.

Nàng rằng: Trời thẳm đất dày!

980. Thân này đã bỏ những ngày ra đi.

Thôi thì thôi có tiếc gì!

Sẵn dao tay áo tức thì giở ra.

Sợ gan nát ngọc liều hoa!

Mụ còn trông mặt nàng đà quá tay.

985. Thương ôi tài sắc bậc này,

Một dao oan nghiệt đứt dây phong trần.
Nỗi oan vỡ lở xa gần,

Trong nhà người chật một lần như nêm.

Nàng thì bằn bặt giấc tiên,

990. Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay.

Vực nàng vào chốn hiên tây,

Cắt người coi sóc chạy thầy thuốc thang.

Nào hay chưa hết trần duyên,

Trong mê dường đã đứng bên một nàng.

995. Rỉ rằng: Nhân quả dở dang,

Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?

Số còn nặng nợ má đào,

Người dầu muốn quyết trời nào đã cho.

Hãy xin hết kiếp liễu bồ,

1000. Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau.

Thuốc thang suốt một ngày thâu,

Giấc mê nghe đã dàu dàu vừa tan.

Tú bà chực sẵn bên màn,

Lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần:

1005. Một người dễ có mấy thân!

Hoa xuân đương nhụy, ngày xuân còn dài.

Cũng là lỡ một lầm hai,

Đá vàng sao nỡ ép nài mưa mây!

Lỡ chưn trót đã vào đây,

1010. Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non.

Người còn thì của hãy còn,

Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà.

Làm chi tội báo oán gia,

Thiệt mình mà hại đến ta hay gì?

1015. Kề tai mấy mỗi nằn nì,

Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi.

Vả suy thần mộng mấy lời,

Túc nhân âu cũng có trời ở trong.

Kiếp này nợ trả chưa xong,

1020. Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau!

Lặng nghe, thấm thía gót đầu,

Thưa rằng: Ai có muốn đâu thế này?

Được như lời, thế là may,

Hẳn rằng mai có như rày cho chăng!

1025. Sợ khi ong bướm đãi đằng,

Đến điều sống ***c, sao bằng thác trong!

Mụ rằng: Con hãy thong dong,

Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi!

Mai sau ở chẳng như lời,

1030. Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi.

Thấy lời quyết đoán hẳn hoi,

Đành lòng, nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần.

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung.

1035. Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

1040. Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ?

1045. Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm?

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

1050. Hoa trôi man mác, biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ dàu dàu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồị

1055. Chung quanh những nước non người,

Đau lòng lưu lạc, nên vài bốn câu.

Chương V: Kiều mắc lừa Sở Khanh
Ngậm ngùi rủ bước rèm châu,

Cách tường, nghe có tiếng đâu họa vần.

Một chàng vừa trạc thanh xuân,

1060. Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng.

Nghĩ rằng cũng mạch thư hương,

Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.

Bóng Nga thấp thoáng dưới mành,

Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai.

1065. Than ôi! sắc nước hương trời,

Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?

Giá đành trong nguyệt trên mây,

Hoa sao, hoa khéo đọa đày bấy hoa?

Tức gan riêng giận trời già,

1070. Lòng này ai tỏ cho ta, hỡi lòng?

Thuyền quyên ví biết anh hùng,

Ra tay tháo cũi, sổ ***g như chơi!

Song thu đã khép cánh ngoài,

Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh.

1075. Nghĩ người thôi lại nghĩ mình,

Cám lòng chua xót, nhạt tình chơ vơ.

Những là lần lữa nắng mưa,

Kiếp phong trần biết bao giờ mới thôi?

Đánh liều nhắn một hai lời,

1080. Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.

Mảnh tiên kể hết xa gần,

Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài.

Tan sương vừa rạng ngày mai,

Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang.

1085. Trời tây lãng đãng bóng vàng,

Phúc thư đã thấy tin chàng đến nơi.

Mở xem một bức tiên mai,

Rành rành tích việt có hai chữ đề.

Lấy trong ý tứ mà suy:

1090. Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng?

Chim hôm thoi thót về rừng,

Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành.

Tường đông lay động bóng cành,

Rẽ song, đã thấy Sở Khanh lẻn vào.

1095. Sượng sùng đánh dạn ra chào,

Lạy thôi, nàng mới rỉ tai ân cần.

Rằng: Tôi bèo bọt chút thân,

Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh.

Dám nhờ cốt nhục tử sinh,

1100. Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau!

Lặng nghe, lẩm nhẩm gật đầu:

Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng!

Nàng đà biết đến ta chăng,

Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi!

1105. Nàng rằng: Muôn sự ơn người,

Thế nào xin quyết một bài cho xong.

Rằng: Ta có ngựa truy phong,

Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi.

Thừa cơ lẻn bước ra đi,

1110. Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn.

Dù khi gió kép, mưa đơn,

Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì!

Nghe lời nàng đã sinh nghi,

Song đà quá đỗi, quản gì được thân.

1115. Cũng liều nhắm mắt đưa chân,

Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu!
Cùng nhau lẻn bước xuống lầu,

Song song ngựa trước, ngựa sau một đoàn.

Đêm thâu khắc lậu canh tàn,

1120. Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương.

Lối mòn cỏ nhợt mù sương,

Lòng quê đi một bước đường, một đau.

Tiếng gà xao xác gáy mau,

Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng.

Nàng càng thổn thức gan vàng,

Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào!

Một mình khôn biết làm sao,

Dặm rừng bước thấp, bước cao hãi hùng.

Hóa nhi thật có nỡ lòng,

1130. Làm chi dày tía, vò hồng, lắm nau!

Một đoàn đổ đến trước sau,

Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời.

Tú bà tốc thẳng đến nơi,

Hầm hầm áp điệu một hơi lại nhà.

1135. Hung hăng chẳng nói chẳng tra,

Đang tay vùi liễu, giập hoa tơi bời.

Thịt da ai cũng là người,

Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau.

Hết lời thú phục, khẩn cầu,

1140. Uốn lưng thịt đổ, cất đầu máu sa.

Rằng: Tôi chút phận đàn bà,

Nước non lìa cửa, lìa nhà, đến đây.

Bây giờ sống chết ở tay,

Thân này đã đến thế này thì thôi!

1145. Nhưng tôi có sá chi tôi,

Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?

Thân lươn bao quản lấm đầu,

Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!

Được lời mụ mới tùy cơ,

1150. Bắt người bảo lĩnh làm tờ cung chiêu.

Bày vai có ả Mã Kiều,

Xót nàng, ra mới đánh liều chịu đoan.

Mụ càng kể nhặt, kể khoan,

Gạn gùng đến mực, nồng nàn mới tha.

1155. Vực nàng vào nghỉ trong nhà,

Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời:

Thôi đà mắc lận thì thôi!

Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh?

Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,

1160. Một tay chôn biết mấy cành phù dung!

Đà đao lập sẵn chước dùng,

Lạ gì một cốt một đồng xưa nay!

Có ba mươi lạng trao tay,

Không dưng chi có chuyện này, trò kia!

1165. Rồi ra trở mặt tức thì,

Bớt lời, liệu chớ sân si, thiệt đời!

Nàng rằng: Thề thốt nặng lời,

Có đâu mà lại ra người hiểm sâu!

Còn đương suy trước, nghĩ sau,

1170. Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào.

Sở Khanh lên tiếng rêu rao:

Rằng nghe mới có con nào ở đây.

Phao cho quyến gió rủ mây,

Hãy xem có biết mặt này là ai

1175. Nàng rằng: Thôi thế thì thôi!

Rằng không, thì cũng vâng lời là không!

Sở Khanh quát mắng đùng đùng,

Sấn vào, vừa rắp thị hùng ra tay,

Nàng rằng: Trời nhé có hay!

1180. Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai?

Đem người giẩy xuống giếng khơi,

Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay!

Còn tiên tích việt ở tay,

Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai?

1185. Lời ngay, đông mặt trong ngoài,

Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương!

Phụ tình án đã rõ ràng,

Dơ tuồng, nghỉ mới kiếm đường tháo lui.

Buồng riêng, riêng những sụt sùi:

1190. Nghĩ thân, mà lại ngậm ngùi cho thân.

Tiếc thay trong giá trắng ngần,

Đến phong trần, cũng phong trần như ai!

Tẻ vui cũng một kiếp người,

Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru!

1195. Kiếp xưa đã vụng đường tu,

Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi!

Dù sao bình đã vỡ rồi,

Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!
Vừa tuần nguyệt sáng, gương trong,

1200. Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:

Nghề chơi cũng lắm công phu,

Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.

Nàng rằng: Mưa gió dập dìu,

Liều thân, thì cũng phải liều thế thôi!

1205. Mụ rằng: Ai cũng như ai,

Người ta ai mất tiền hoài đến đây?

Ở trong còn lắm điều hay,

Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.

Này con thuộc lấy nằm lòng,

1210. Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề.

Chơi cho liễu chán, hoa chê,

Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời.

Khi khóe hạnh, khi nét ngài,

Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa.

1215. Đều là nghề nghiệp trong nhà,

Đủ ngần ấy nết, mới là người soi.

Gót đầu vâng dạy mấy lời,

Dường chau nét nguyệt, dường phai vẻ hồng.

Những nghe nói, đã thẹn thùng,

1220. Nước đời lắm nỗi lạ lùng, khắt khe!

Xót mình cửa các, buồng khuê,

Vỡ lòng, học lấy những nghề nghiệp hay!

Khéo là mặt dạn, mày dày,

Kiếp người đã đến thế này thì thôi!

1225. Thương thay thân phận lạc loài,

Dẫu sao cũng ở tay người biết sao?

Lầu xanh, mới rủ trướng đào,

Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.

Biết bao bướm lả, ong lơi,

1230. Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.

Dập dìu lá gió, cành chim,

Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.

Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,

Giật mình, mình lại thương mình xót xa.

1235. Khi sao phong gấm rủ là,

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân?

Mặc người mưa Sở, mây Tần,

1240. Những mình nào biết có xuân là gì!

Đôi phen gió tựa, hoa kề,

Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu.

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!

1245. Đòi phen nét vẽ, câu thơ,

Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa,

Vui là vui gượng kẻo mà,

Ai tri âm đó, mặn mà với ai?

Thờ ơ gió trúc, mưa mai,

1250. Ngẩn ngơ trăm nỗi, giùi mài một thân.

Ôm lòng đòi đoạn xa gần,

Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau!

Nhớ ơn chín chữ cao sâu,

Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.

1255. Dặm ngàn, nước thẳm, non xa,

Nghĩ đâu thân phận con ra thế này!

Sân hòe đôi chút thơ ngây

Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình?

Nhớ lời nguyện ước ba sinh,

1260. Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?

Khi về hỏi liễu Chương đài,

Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay.

Tình sâu mong trả nghĩa dày,

Hoa kia đã chắp cành này cho chưa?

1265. Mối tình đòi đoạn vò tơ,

Giấc hương quan luống lần mơ canh dài.

Song sa vò võ phương trời,

Nay hoàng hôn, đã lại mai hôn hoàng.

Lần lần thỏ bạc ác vàng,

1270. Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn!

Đã cho lấy chữ hồng nhan,

Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân!

Đã đày vào kiếp phong trần,

Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!

Đăng nhập để bình luận:


Bài liên quan