Truyện kiều chương VIII: Kiều và Hoạn Thư (Tiếp)

Ngày đăng: 25/12/2014

Chương VIII: Kiều và Hoạn Thư (Tiếp)

1705. Nước trôi hoa rụng đã yên,

Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian.

Khuyển ưng đã đắt mưu gian,

Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền.

Buồm cao lèo thẳng cánh suyền,

1710. Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang.

Dỡ đò lên trước sảnh đường,

Khuyển ưng hai đứa nộp nàng dâng công.

Vực nàng tạm xuống môn phòng,

Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai.

1715. Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai,

Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây?

Bàng hoàng giở tỉnh giở say,

Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu.

A hoàn trên dưới giục mau,

1720. Hãi hùng nàng mới theo sau một người.

Ngước trông tòa rộng dãy dài,

Thiên Quan Trủng Tể có bài treo trên.

Ban ngày sáp thắp hai bên,

Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà.

1725. Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra,

Sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa.

Bất tình nổi trận mây mưa,

Mắng rằng: Những giống bơ thờ quen thân!

Con này chẳng phải thiện nhân,

1730. Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng.

Ra tuồng mèo mả gà đồng,

Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.

Đã đem mình bán cửa tao,

Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này.

1735. Nào là gia pháp nọ bay!

Hãy cho ba chục biết tay một lần.

A hoàn trên dưới dạ ran,

Dẫu rằng trăm miệng không phân lẽ nào.

Trúc côn ra sức đập vào,

1740. Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh.

Xót thay đào lý một cành,

Một phen mưa gió tan tành một phen.

Hoa nô truyền dạy đổi tên,

Buồng the dạy ép vào phiên thị tì.

1745. Ra vào theo lũ thanh y,

Dãi dầu tóc rối da chì quản bao.

Quản gia có một mụ nào,

Thấy người thấy nết ra vào mà thương.

Khi chè chén khi thuốc thang,

1750. Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh.

Dạy rằng: May rủi đã đành,

Liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay.

Cũng là oan nghiệp chi đây,

Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng.

1755. Ở đây tai vách mạch rừng,

Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi.

Kẻo khi sấm sét bất kỳ,

Con ong cái kiến kêu gì được oan?

Nàng càng giọt ngọc như chan,

1760. Nỗi lòng luống những bàng hoàng niềm tây:

Phong trần kiếp chịu đã đầy,

Lầm than lại có thứ này bằng hai.

Phận sao bạc chẳng vừa thôi,

Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan.

1765. Đã đành túc trái tiền oan,

Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi.

Những là nương náu qua thì,

Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia.

Mẹ con trò chuyện lân la,

1770. Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:

Tiểu thư dưới trướng thiếu người,

Cho về bên ấy theo đòi lầu trang.
Lãnh lời nàng mới theo sang,

Biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu.

1775. Sớm khuya khăn mắt lược đầu,

Phận con hầu giữ con hầu dám sai.

Phải đêm êm ả chiều trời,

Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày.

Lĩnh lời nàng mới lựa dây,

1780. Nỉ non thánh thót dễ say lòng người.

Tiểu thư xem cũng thương tài,

Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.

Cửa người đày đọa chút thân,

Sớm ngơ ngẩn bóng đêm năn nỉ lòng.

1785. Lâm Tri chút nghĩa đèo bồng,

Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau.

Bốn phương mây trắng một màu,

Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.

Lần lần tháng trọn ngày qua,

1790. Nỗi gần nào biết đường xa thế này.

Lâm Tri từ thuở uyên bay,

Buồng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân.

Mày ai trăng mới in ngần,

Phần thừa hương cũ bội phần xót xa.

1795. Sen tàn cúc lại nở hoa,

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.

Tìm đâu cho thấy cố nhân?

Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,

1800. Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.

Tiểu thư đón cửa giãi giề,

Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.

Nhà hương cao cuốn bức là,

Buồng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng.

1805. Bước ra một bước một dừng,

Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa:

Phải chăng nắng quáng đèn lòa,

Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?

Bây giờ tình mới rõ tình,

1810. Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai.

Chước đâu có chước lạ đời?

Người đâu mà lại có người tinh ma?

Rõ ràng thật lứa đôi ta,

Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi.

1815. Bề ngoài thơn thớt nói cười,

Mà trong nham hiểm giết người không dao.

Bây giờ đất thấp trời cao,

Ăn làm sao nói làm sao bây giờ?

Càng trông mặt càng ngẩn ngơ,

1820. Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời.

Sợ uy dám chẳng vâng lời,

Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.

Sinh đà phách lạc hồn siêu:

Thương ơi chẳng phải nàng Kiều ở đây?

1825. Nhân làm sao đến thế này?

Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!

Sợ quen dám hở ra lời,

Không ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa.

Tiểu thư trông mặt hỏi tra:

1830. Mới về có việc chi mà động dong?

Sinh rằng hiếu phục vừa xong,

Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên.

Khen rằng: Hiếu tử đã nên!

Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu.

1835. Vợ chồng chén tạc chén thù,

Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.

Bắt khoan bắt nhặt đến lời,

Bắt quì tận mặt bắt mời tận tay.

Sinh càng như dại như ngây,

1840. Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén vơi.

Ngảnh đi chợt nói chợt cười,

Cáo say chàng đã giạm bài lảng ra.

Tiểu thư vội thét: Con Hoa!

Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn.

1845. Sinh càng nát ruột tan hồn,

Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay.

Tiểu thư cười nói tỉnh say,

Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi.

Rằng: Hoa nô đủ mọi tài,

1850. Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe.

Nàng đà tán hoán tê mê,

Vâng lời ra trước bình the vặn đàn.

Bốn dây như khóc như than,

Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.

1855. Cùng chung một tiếng tơ đồng,

Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.

Giọt châu lã chã khôn cầm,

Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương.

Tiểu thư lại thét lấy nàng:

1860. Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi?

Sao chẳng biết ý tứ gì?

Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi.

Sinh càng thảm thiết bồi hồi,

Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua.

1865. Giọt rồng canh đã điểm ba,

Tiểu thư nhìn mặt dường đà can tâm.

Lòng riêng khấp khởi mừng thầm:

Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay.

Sinh thì gan héo ruột đầy,

1870. Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.
Người vào chung gối loan phòng,

Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài:

Bây giờ mới rõ tăm hơi,

Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!

1875. Chước đâu rẽ thúy chia uyên,

Ai ra đường nấy ai nhìn được ai.

Bây giờ một vực một trời,

Hết điều khinh trọng hết lời thị phi.

Nhẹ như bấc nặng như chì,

1880. Gỡ cho ra nữa còn gì là duyên?

Lỡ làng chút phận thuyền quyên,

Bể sâu sóng cả có tuyền được vay?

Một mình âm ỉ đêm chày,

Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh.

1885. Sớm trưa hầu hạ đài doanh,

Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra.

Lựa lời nàng mới thưa qua:

Phải khi mình lại xót xa nỗi mình.

Tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh:

1890. Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!

Sinh đà rát ruột như bào,

Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang!

Những e lại lụy đến nàng,

Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra.

1895. Cúi đầu quỳ trước sân hoa,

Thân cung nàng mới dâng qua một tờ.

Diện tiền trình với Tiểu thư,

Thoạt xem dường có ngẩn ngơ chút tình.

Liền tay trao lại Thúc Sinh,

1900. Rằng: Tài nên trọng mà tình nên thương!

Ví chăng có số giàu sang,

Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!

Bể trần chìm nổi thuyền quyên,

Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!

1905. Sinh rằng: Thật có như lời,

Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay!

Nghìn xưa âu cũng thế này,

Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa.

Tiểu thư rằng: ý trong tờ,

1910. Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa Không.

Thôi thì thôi cũng chiều lòng,

Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra.

Sẵn Quan Âm Các vườn ta,

Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa.

1915. Có cổ thụ, có sơn hồ,

Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh.

Tàng tàng trời mới bình minh,

Hương hoa, ngũ cúng, sắm sanh lễ thường.

Đưa nàng đến trước Phật đường,

1920. Tam qui, ngũ giới, cho nàng xuất gia.

Áo xanh đổi lấy cà sa,

Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.

Sớm khuya sắm đủ dầu đèn,

Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà.

1925. Nàng từ lánh gót vườn hoa,

Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng.

Nhân duyên đâu lại còn mong,

Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi.

Phật tiền thảm lấp sầu vùi,

1930. Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương.

Cho hay giọt nước cành dương,

Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.

Nâu sồng từ trở màu thiền,

Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu,

1935. Cửa thiền, then nhặt, lưới mau,

Nói lời trước mặt, rời châu vắng người.
Gác kinh viện sách đôi nơi,

Trong gang tấc lại gấp mười quan san.

Những là ngậm thở nuốt than,

1940. Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà.

Thừa cơ, sinh mới lẻn ra,

Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng.

Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng,

Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh:

1945. Đã cam chịu bạc với tình,

Chúa xuân để tội một mình cho hoa!

Thấp cơ thua trí đàn bà,

Trông vào đau ruột nói ra ngại lời.

Vì ta cho lụy đến người,

1950. Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh!

Quản chi lên thác xuống ghềnh,

Cũng toan sống thác với tình cho xong.

Tông đường chút chửa cam lòng,

Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai.

1955. Thẹn mình đá nát vàng phai,

Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?

Nàng rằng: Chiếc bách sóng đào,

Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may!

Chút thân quằn quại vũng lầy,

1960. Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?

Cũng liều một giọt mưa rào,

Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay!

Xót vì cầm đã bén dây,

Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta.

1965. Liệu bài mở cửa cho ra,

Ấy là tình nặng ấy là ân sâu!

Sinh rằng: Riêng tưởng bấy lâu,

Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường.

Nữa khi giông tố phũ phàng,

1970. Thiệt riêng đó cũng lại càng cực đây.

Liệu mà xa chạy cao bay,

Ái ân ta có ngần này mà thôi!

Bây giờ kẻ ngược người xuôi,

Biết bao giờ lại nối lời nước non?

1975. Dẫu rằng sông cạn đá mòn,

Con tằm đến thác cũng còn vương tơ!

Cùng nhau kể lể sau xưa,

Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời.

Mặt trông tay chẳng nỡ rời,

1980. Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa.

Nhận ngừng, nuốt tủi, lảng ra,

Tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào.

Cười cười, nói nói ngọt ngào,

Hỏi: Chàng mới ở chốn nào lại chơi?

1985. Dối quanh Sinh mới liệu lời:

Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh.

Khen rằng: Bút pháp đã tinh,

So vào với thiếp Lan đình nào thua!

Tiếc thay lưu lạc giang hồ,

1990. Nghìn vàng, thật cũng nên mua lấy tài!

Thiền trà cạn chén hồng mai,

Thong dong nối gót thư trai cùng về.

Nàng càng e lệ ủ ê,

Rỉ tai, hỏi lại hoa tì trước sau.

1995. Hoa rằng: Bà đã đến lâu,

Rón chân đứng nép độ đâu nữa giờ.

Rành rành kẽ tóc chân tơ,

Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.

Bao nhiêu đoạn khổ, tình thương,

2000. Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than.

Ngăn tôi đứng lại một bên,

Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.

Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:

Đàn bà thế ấy thấy âu một người!

2005. Ấy mới gan ấy mới tài,

Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời!

Người đâu sâu sắc nước đời,

Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!

Thực tang bắt được dường này,

2010. Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng.

Thế mà im chẳng đãi đằng,

Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng!

Giận dầu ra dạ thế thường,

Cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu!

2015. Thân ta ta phải lo âu,

Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này!

Ví chăng chắp cánh cao bay,

Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa!

Phận bèo bao quản nước sa,

2020. Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.

Chỉn e quê khách một mình,

Tay không chưa dễ tìm vành ấm no!

Nghĩ đi nghĩ lại quanh co,

Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân.

2025. Bên mình giắt để hộ thân,

Lần nghe canh đã một phần trống ba.

Cất mình qua ngọn tường hoa,

Lần đường theo bóng trăng tà về tây.

Đăng nhập để bình luận:


Bài liên quan